Sự tiến bộ của đạo đức là do những
giá trị đạo đức trong lịch sứ phát triển của nó tạo thành. Trong các học thuyết
về đạo đức, có học thuyết chỉ có giá trị thúc đẩy tiến bộ xã hội ở một thời
điểm nhất định nào đó , nhưng cũng có những học thuyết đạo đức có thể có giá
trị lâu dài đối với sự phát triển xã hội.
Vậy giá trị đạo đức là gì? Dựa vào
tiêu chuẩn nào để đánh giá giá trị đạo đức? Như chúng ta đã biết, đạo đức với
tính cách là một hình thái ý thức xã hội có thể được xem là đoàn bộ những quan
niệm về thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và
về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội,
giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng
đạo đức thống trị trong xã hội là tư tưởng đạo đức của giai cấp giữ địa vị
thống trị về kinh tế. Giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế dựa vào bộ máy
nhà nước để tuyên truyền, giáo dục và thể chế hoá tư tưởng đạo đức của mình
thành những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức, biến nó trở thành thước đo đánh giá,
điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, phù hợp với lợi ích của nó.
Giá trị, theo nghĩa chung nhất,
chúng ta có thể hiểu nó là cái mà do nó đã làm cho một khách thể nào đó có ích,
có nghĩa, đáng quý đối với chủ thể, được mọi người thừa nhận. Người ta có thể
phân chia giá trị thành: giá trị vật chất, giá trị tinh thần, giá trị riêng, giá
trị chung, giá trị xã hội. Có quan điểm cho rằng giá trị là cái vốn có của
khách thể, nhưng mỗi chủ thể lại có thể đánh giá, xem xét nó trên những góc độ
khác nhau, đưa đến những quan niệm khác nhau về giá trị. Quan điểm đó không
đúng, bởi khi nói đến giá trị là nói đến cái được mọi người thừa nhận, phù hợp
với lợi ích của xã hội. Tuy nhiên, giá trị cũng là phạm trù có tính lịch sử.
Xuất phát từ những quan niệm trên,
chúng ta có thể hiểu giá trị đạo đức là cái được con người lựa chọn và đánh
giá, xem nó như là việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được
lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương.
Lợi ích xã hội là tiêu chuẩn khách
quan của các giá trị đạo đức, do đó chỉ khi nào những nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức điều chỉnh hành vi phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình ủng
hộ thì mới có giá trị. Như vậy, giá trị đạo đức được xác định bởi mức độ phù
hợp của chúng đối với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Song lợi ích xã hội và yêu
cầu của tiến bộ xã hội lại có tính lịch sử, nghĩa là mỗi giai đoạn phát triển
xã hội lại có những yêu cầu về lợi ích và sự tiến bộ của nó, chính vì vậy mà
giá trị đạo đức cũng có tính lịch sử.
Giá trị đạo đức được thể hiện thông
qua việc thực hiện các chức năng của đạo đức. Song, ở giai đoạn nào của sự phát
triển xã hội thì đạo đức, theo chúng tôi, cũng có những chức năng cơ bản sau:
-
Thứ
nhất, chức năng điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi được thực hiện bằng
hai hình thức chủ yếu.
+ Một là, thông qua dư luận xã hội,
ca ngợi, khuyến khích cái thiện, cái tốt, lên án, phê phán cái ác, cái xấu.
Trong trường hợp này, giá trị đạo đức phụ thuộc vào sức mạnh và tính đúng đắn
của dư luận. Mỗi khi dư luận xã hội được củng cố và phát triển, được mọi người
đồng tình ủng hộ, nó sẽ trở thành sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh đạo đức.
Dân tộc ta có câu ca: "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ". Quả thật, cái "bia miệng" (dư luận xã hội) hàng ngàn
năm vẫn lưu truyền, nó lâu bền hơn cả sắt đá nó trở thành công cụ lợi hại trong
việc điều chỉnh hành vi đạo đức. Do đó, nếu dư luận xã hội mỗi khi được hướng
dẫn bởi những học thuyết đạo đức tiên tiến, sẽ góp phần điều chỉnh hành vi đạo
đức, làm cho nó phù hợp với sự tiến bộ xã hội, tạo nên những giá trị đạo đức
đích thực.
+ Hai là, bản thân chủ thể đạo đức
tự giác điều chỉnh hành vi của mình theo những chuẩn mực đạo đức xã hội. Cách
thức điều chỉnh này phụ thuộc vào việc giáo dục, giác ngộ của chủ thể đạo đức.
Bởi lẽ, trong quan hệ đạo đức chủ thể đạo đức vừa tham gia vào hành vi ứng xử,
vừa là người phán xét hành vi ứng xử của chính mình. Khi thực hiện hành vi ứng
xử, chủ thể đạo đức dựa vào các chuẩn mực được hình thành trong bản thân họ
(chuẩn mực này đã tiếp thu chuẩn mực đạo đức xã hội và do điều kiện sinh sống và
các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân chủ thể tạo thành). Nếu các chuẩn mực đó
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, nó sẽ trở thành cơ sở khách quan làm cho
hành vi đạo đức của cá nhân phù hợp với lợi ích xã hội, được dư luận đồng tình
ủng hộ.
Ngược lại, mỗi khi chuẩn mực cá
nhân sai lệch chuẩn mực xã hội sẽ dẫn đến những hành vi đạo đức cá nhân không
phù hợp với lợi ích xã hội. Trong trường hợp này, dư luận xã hội sẽ lên án, phê
phán. Khi phán xét hành vi ứng xử của mình, chủ thể đạo đức căn cứ vào chuẩn
mực đạo đức của cá nhân họ. Nếu như vì thiếu nhiệt tình, chưa cố gắng hết sức
mình, nên không thực hiện được một quan hệ đạo đức nào đó đúng như chuẩn mực
của bản thân, thì lương tâm họ bị cắn rứt, họ cảm thấy ân hận, xấu hổ về hành
vi của mình. Ngược lại mỗi khi họ thực hiện được những quan hệ đạo đức đúng như
chuẩn mực đã hình thành ở họ, thì lương tâm họ cảm thấy thanh thản, họ tự hào
về hành vi của mình. Như vậy, với cách thức điều chỉnh này, giá trị đạo đức phụ
thuộc vào các chuẩn mực đạo đức được hình thành trong mỗi chủ thể đạo đức đó là
cơ sở cho hành vi đạo đức của mỗi cá nhân phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã
hội.
- Thứ hai, chức năng giáo dục. Chức
năng giáo dục được thực hiện thông qua sự giáo dục của xã hội và sự tự giáo dục
của mỗi cá nhân. Giáo dục đạo đức là quá trình tuyên truyền những tư tương,
nhưng chuẩn mực đạo đức xã hội, biến nó thành thước đo đánh giá, điều chình
hành vi của mỗi cá nhân nhằm đạt tới một sự phù hợp giữa hành vi cá nhân với
lợi ích xã hội.
Trong quá trình hoạt động sinh
sống, mỗi cá nhân không chỉ mưu cầu lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, mà còn
mưu cầu sự tiến bộ của bản thân và đều muốn được dư luận xã hội ca ngợi, biểu
đương. Do đó, những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức xã hội trở thành mục
tiêu, thành những định hướng cho hoạt động cá nhân của nó. Những hành vi đạo
đức có tính chất lặp đi lặp lại, tạo nên các quan hệ đạo đức tương đối ổn định
và nó thường xuyên được duy trì, củng cố bằng dư luận xã hội sẽ trở thành thói
quen, tập quán, truyền thống đạo đức trở thành nhân tố trực tiếp tác động đến
sự hình thành đạo đức của thế hệ người tiếp theo. Như vậy, giá trị đạo đức
trong trường hợp này được hình thành, phát triển ra sao luôn phụ thuộc vào tính
đúng đắn, khoa học của những tư tưởng và những chuẩn mực đạo đức được tuyên
truyền, giáo đục trong xã hội.
Tự giáo dục đạo đức của cá nhân,
trước hết thế hiện ở chỗ, môi cá nhân thông qua sự tự phán xét của lương tâm về
hành vi của mình để củng cố các chuẩn mực đạo đức cá nhân, để đạt tới hành vi
ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức đó. Mặt khác, dựa vào dư luận xã hội,
họ tự điều chỉnh hành vi và điều chỉnh ngay cả những chuẩn mực đạo đức cá nhân
khi nhận thấy nó sai lệch với chuẩn mực xã hội. Giá trị đạo đức trong trường hợp
này được xác định phụ thuộc vào sự nhạy cảm, sự cầu thị của chủ thể trong việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho phù hợp với tư tưởng, chuẩn mực đạo đức của xã
hội.
- Thứ ba, chức năng nhận thức.
Những tư tưởng đạo đức và chuẩn mực đạo đức xã hội có trở thành các quan hệ đạo
đức trong đời sống xã hội hay không, điều đó không chỉ phụ thuộc vào tính đúng
đắn, tư tưởng đạo đức, của các chuẩn đạo đức, vào việc tuyên truyền, giáo dục
trong xã hội, mà còn phụ thuộc rất lớn vào khả năng tiếp nhận và chuyển hoá nó
trong hoạt động nhận thức và trong hành vi của mỗi chủ thể đạo đức. Thông qua
sự lựa chọn, đánh giá của các chủ thể đạo đức về những tư tưởng, chuẩn mực đạo
đức, trong bản thân họ hình thành niềm tin, lý tương đạo đức và các nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức trong quan hệ ứng xử của chính họ.
Hoạt động nhận thức đạo đức cũng
bao gồm hai trình độ: tình cảm và tư tưởng đạo đức, kinh nghiệm và lý luận đạo
đức.
Nhận thức đạo đức ớ trình độ kinh
nghiệm hoặc tình cảm đạo đức gắn liền với hoạt động thực tiễn, với các quan hệ
đạo đức của xã hội và luôn chịu ảnh hưởng của dư luận, tập quán, truyền thống
đạo đức. Quá trình này hình thành nên ớ chủ thể đạo đức nhưng hình ảnh, những
"thần tượng" được coi là chuẩn mực trực tiếp cho việc đánh giá, điều
chỉnh hành vi đạo đức của họ. Chẳng hạn, một đứa trẻ thường thông qua việc quan
sát những hành vi ứng xử cửa bố mẹ nó vời bạn bè, với nhưng người thân trong
gia đình, với công việc... nó cũng sẽ làm như bố mẹ đã làm trước đây.
Nhận thức đạo đức ở trình độ tư
tưởng hoặc lý luận là nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bới những lợi
ích căn bản của giai cấp, của xã hội.
Thông qua quá trình nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn, chủ thể đạo đức phân tích, đánh giá, lựa chọn các tư
tưởng đạo đức và các chuẩn mực đạo đức trong xã hội để trên cơ sở đó, chứng
minh, lý giải các tư tưởng đạo đức và các chuẩn mực đạo đức được hình thành
trong bản thân nó là đúng đắn và hợp lý, để tiếp thu cái đúng, cái hợp lý và
phê phán những sai trái trong các tư tưởng và chuẩn mực đạo đức khác.
Như vậy, có thể nói, giá trị đạo
đức được hình thành ở mỗi cá nhân luôn phụ thuộc vào việc các cá nhân ấy được
giáo dục và tiếp nhận những tư tưởng và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã
hội.