Khái
niệm về Tam
Giáo Đồng Nguyên
Nói đến Tam Giáo Đồng Nguyên làm SK nhớ đến người thầy khả
kính là cố giáo sư Nguyễn Đăng Thục người đã làm sống lại tinh thần Tam Giáo
Đồng Nguyên từ thời Lý Trần (1010- 1400 ) qua môn Quốc Học cho sinh viên ban
Văn Chương tại viện đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn vào trước năm 1975.
Tam Giáo là chữ từ Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão giáo: Phật
Giáo từ Ấn Độ truyền sang (phía Tây Nam đưa lên), Còn Khổng giáo và Lão Giáo từ
Trung Hoa truyền sang (phía bắc đi xuống). Dân tộc Việt Nam đã hài hòa 3 đạo
nầy lại được thể hiện qua thái độ sống chứ không phải hòa chung Phật, Khổng và
Lão với nhau.
Khổng học (còn gọi Nho Học) chuyên về cái lễ giáo của xã hội,
đã uốn nắn con người ngay từ khi lọt lòng, làm sao thich hợp với hoàn cảnh, tức
là đạo Nho chủ trương lập thế thể hiện trong xã hội qua đời sống cá nhân và
cộng đồng.Thể hiện cái đạo để đưa đến hạnh phúc. Thí dụ như Quân, Sư, Phụ :
Quốc gia đứng đầu là vua,
Xã hội đứng đầu là Thầy học
Gia đình đứng đầu là Cha - Mẹ
Làm con phải hiếu làm tôi phải trung...vv và vv
Đạo Lão (còn gọi là Lão Trang) thì quay về thiên nhiên, đứng
ngoài nhân quần xã hội "tự nhiên chi nhiên", tức là đạo Lão chủ
trương xuất thế, sống tự nhiên trong khung cảnh thiên nhiên của trời đất. Lối
sống của những nhà ẩn dật tìm vào hang động thiên nhiên thông cảm với đạo Trời.
Một đằng thì Chính danh, hữu vi, đề cao giá trị " Lễ,
trí, nhân, nghĩa. Một đằng thì phi thường danh, vô vi, tuyệt lễ khí trí, tuyệt
nhân khí nghĩa.
Nếu nhìn ở phương diện triết học về khái niệm thì hai hệ
thống trên đây là cả một sự mâu thuẩn, đối lập nhau, khó có thể sống chung.
Khổng giáo chấp vào có thế giới, Lão giáo chấp vào không có thế giới. Duy chỉ
có Phật Giáo qua các Thiền sư đời nhà Lý tinh thông Nho học và Lão học đã sớm ý
thức cái sở trường và sở đoản của hai dòng tư tưởng trên đã áp dụng tinh thần
vô chấp tức là không chấp nhận 2 quan điểm Có hay Không để thấu triệt vấn đề là
làm sao thoát khỏi cái vòng đau khổ của cuộc sống, sinh tử của luân hồi, dứt
được sự tính toán "Có " "Không" thì chỉ có Phật giáo giải
quyết được mà thôi.
Vì Đạo Khổng, Đạo Lão và Đạo Phật đều có khác nhau về quan
điểm nhưng cùng ý hướng vào mục đích chung, bởi thế mà chúng có thể bổ túc cho
nhau thành một thế giới quan đầy đủ về 3 phương diện đòi hỏi của con người: ý
chí, tình cảm và lý trí tức là Chân Thiện Mỹ, chứ không phải là hệ thống danh
lý (concept) về sự vật rồi gạt bỏ những phương tiện khác không thich hợp với hệ
thống của mình hay đạo của mình.
Thí dụ như bài ca dao của tầng lớp bình dân :
Ngó lên trên
trời thấy cặp cu đương đá
Ngó ra ngoài
biển thấy cặp cá đương đua
Đi về lập
miếu thờ vua
Lập trang thờ
Mẹ, lập chuà thờ cha.
Một bài ca dao thật đơn sơ và mộc mạc nhưng đã thể hiện cả
tình cảm, thiên nhiên gia đình và xã hội qua 3 đạo khác nhau. Qua tới những sĩ
phu, trí thức lãnh đạo thì tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên càng được phát triển
mạnh mẽ :
Thí dụ như bài thơ tứ tuyệt :
Vạn Hạnh dung
tam tế,
Chân Phù cổ
sấm ki
Hương quan
danh Cổ Pháp
Trụ tich trấn
Vương kỳ
Tạm dich :
Vạn Hạnh có
cái đức dung thông cả ba cõi Trời, Đất và Người
Phù chú chân
thật, lời sấm về thiên cơ
Quê hương có
tên là Pháp xưa
Gậy nhà Phật
bảo vệ kinh kỳ nhà vua.
Bài thơ được làm dưới Triều nhà Lý, thời mà các Thiền sư điều
tinh thông phù sấm tiên tri, thần thông qua Dich pháp với Lão học và các ngài
đã trực tiếp tham gia vào sinh hoạt chính trị quốc gia như phò vua, gìữ nước.
Một bài thơ khác được sáng tác gần thời chúng ta hơn, đó là
bài " Tâm xuân " của nhà thơ Phạm Thiên Thư và được nhạc sĩ Phạm Duy
phổ nhạc vào khoảng thập niên 70. Tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên được thể hiện
rất rõ qua bài thơ nầy :
Tâm Xuân
Xuân về trong
gió, hoa lay lững lờ
Xuân về đám mây, bướm vàng nhụy bay
Xuân về lòng đất, mầm tươi nhựa trào
Xuân về non cao, chim mừng suối reo...
Xuân về đám mây, bướm vàng nhụy bay
Xuân về lòng đất, mầm tươi nhựa trào
Xuân về non cao, chim mừng suối reo...
Xuân về biển
mát, suôi nhanh cánh buồm
Xuân về suối xanh, cá hồng lượn quanh
Xuân về trầm ngát, Di Lặc hiền lành
Em về thiên nhiên, ngâm mình suối tiên.
Xuân về suối xanh, cá hồng lượn quanh
Xuân về trầm ngát, Di Lặc hiền lành
Em về thiên nhiên, ngâm mình suối tiên.
Em về thôn
trang, tiếng hò giao duyên
Em về khơi hương, thơm ngôi từ đường
Em về quê nhà, lễ đình làng ta
Nhớ cội, nhớ nguồn, đất tổ, quê cha
Em về siêu nhiên, hành hương chùa chiền
Dâng hoa cúng Phật, ưu phiền sẽ tan
Em mở lòng ra, vui cùng cỏ hoa
Xuân về vũ trụ ! Ta về lòng Ta !
Em về khơi hương, thơm ngôi từ đường
Em về quê nhà, lễ đình làng ta
Nhớ cội, nhớ nguồn, đất tổ, quê cha
Em về siêu nhiên, hành hương chùa chiền
Dâng hoa cúng Phật, ưu phiền sẽ tan
Em mở lòng ra, vui cùng cỏ hoa
Xuân về vũ trụ ! Ta về lòng Ta !
Có thiên
nhiên mới, an vui hiền hoà
Có lò hương đợi, nối liền ngày qua
Mái đình diệu vợi, nặng tình quốc gia
Chuông chùa siêu thoát, Ta vượt lòng Ta.
Bao dung độ lượng như bốn mùa hoa.
Có lò hương đợi, nối liền ngày qua
Mái đình diệu vợi, nặng tình quốc gia
Chuông chùa siêu thoát, Ta vượt lòng Ta.
Bao dung độ lượng như bốn mùa hoa.
***********************************************************