CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI HUỲNH RẠNG Blog (Lập ngày 21-10-2010)


THỜI GIAN SỐNG CỦA CON NGƯỜI KHÔNG DÀI; HÃY SỐNG NHƯ THẾ NÀO CHO ĐỜI NGƯỜI CÓ Ý NGHĨA .

Bạn hãy nghĩ về cuộc đời mình đã có ý nghĩa chưa? đã làm được gì cho gia đình, bạn bè và mọi người? Một việc dù nhỏ nhưng tạo ra hạnh phúc cho mình và người khác thì đã góp phần cho cuộc sống ta có ý nghĩa.

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Suy ngẫm về ngụ ngôn, danh ngôn

Trong cuộc sống có biết bao điều suy ngẫm.
Bạn hãy thử một chút nào!
Bạn nghĩ gì về chuyện ngụ ngôn, câu danh ngôn, cậu ngụ ngôn dưới đây:

Chuyện ngụ ngôn HƯƠU VÀ CÁO.

Một hôm, Hươu gặp lại kẻ thù cũ của nó là con Cáo đang bị mắc bẫy nằm lăn giữa rừng.
Hươu mon men đến gần, giơ cao chân giận dữ nện mạnh xuống đầu Cáo. Thấy Hươu giơ cao chân nên Cáo nhanh nhảu tránh được. Vì vậy, chân Hươu giậm phải cần bẫy nên Cáo rút được chân ra,.
Cáo chạy thoát ra khỏi bẫy rồi ngoái lại bảo Hươu:
- Được một kẻ thù ngu ngốc như anh, tôi thật thích như có một người bạn tốt.
Bạn hãy suy ngậm xem?

Theo tôi tha thứ là trả thù vinh quang nhất.

Hãy thử nghĩ về câu danh ngôn sau.
“Trí thông minh của chúng ta bắt đầu từ kinh nghiệm, chủ nghĩa kinh nghiệm – từ những ngu dốt của chúng ta – X.Gitri”.


 
Những câu ngụ ngôn sau.
- Thử thách của cam đảm không phải là dam chết mà là dám sống và thực hiện mơ ươc của mình.
- Có ba cách để tự làm giàu cho mình: mỉm cười, cho đi và tha thứ.
- Mỗi khi đối mặt với thử thach, hãy tìm cho mình một lối đi chứ không phải một lối thoát.
- Đừng quên, nhu cầu cảm xúc cao nhất của một con người là cảm thấy được tôn trọng.
- Đừng sử dụng thời gian và ngôn từ một cách bất cẩn, cả hai thứ đó đều không thể lấy lại.
- Bạn có thể ghét người mình yêu, nhung không bao giờ có thể yêu người minh ghét.
- Đừng làm mòn giá trị bản thân bởi việc so sánh với người khác, bởi mỗi người trong chúng ta đều là những người đặc biệt.
- Nếu bạn luôn cố giống một ai đó, bạn sẽ đánh mất những gì đặc biệt về mình.
- Khi không có được cái mà ta yêu, thì hãy yêu cái mà ta có.

     Một số gợi ý, nếu các bạn có thời gian để suy ngẫm bạn sẽ tim thấy nhiều đều thú vị trong các câu chuyện ngụ ngôn, các câu ngụ ngôn, các câu danh ngôn. Đồng thời nó cũng giúp bạn hình thành nên thế giới quan và nhân sinh quan cho bạn.

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Cháu Minh Nguyệt mừng sinh nhật blog Huỳnh Rạng


Bé Minh Nguyệt 9 tháng tuổi mừng blog (cháu ngoại)
                       



       

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Mừng blog HUỲNH RẠNG tròn 3 tuổi

- Thành lập vào 21-10-2010 đến hôm nay vừa tròn 3 năm..
- Tính đến 19 giờ ngày 21-10-2013 blog đã làm được một kết quả kiêm tốn, cụ thể:
  + Số lượt các bạn ghé thăm blog là 8.823 lươt
  + Số bài đã viết là 173 bài các loại..
Những cánh hoa đẹp cho ngày sinh nhật, biểu hiện thân thiên và luôn mong muốn các bạn ghé thăm.
Việc ghé thăm và góp ý của các bạn là nguồn lực giúp blog Huỳnh Rạng luôn tồn tại và phát triển.



                 
Nhân dịp này tác giả xin đươc gởi lời tri ân và cảm tạ tất cả các bạn gần xa. Xin gởi đến các bạn lời chúc tốt đẹp nhất.

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

10 XE MÁY CỔ TRÊN 100 TUỔI (kỹ niệm blog 3 tuổi)

  1. Hildebrand & Wolfmülle - Đức 1894



2. Holden - Anh 1899





  3. Werner - Pháp 1900




4. Motosacoche - Pháp 1900



 5. Humber - Anh 1902






 6. Clement - Pháp 1902









 7. Singer - Anh 1904







 8. Curtiss V-8 - Mỹ 1907




 9. Harley-Davidson Model 7D “The Silent Gray Fellow” - Mỹ 1911





10. Indian TT - Mỹ 1911

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Ngẫm về người Quân tử và kẻ Tiểu nhân

     Quan niệm Nho giáo xưa chia con người ta thành hai hạng chính là quân tử và tiểu nhân. Để cho mọi cá nhân hoàn mỹ, nền văn hoá cổ đưa ra hàng loạt khái niệm quan trọng: nhân, đức, lễ, hiếu, nghĩa nhằm ràng buộc, chế ngự hành vi con người, mong muốn con người nhanh chóng được hoàn thiện.

     Cần phải hiểu rõ các danh từ riêng quân tử và tiểu nhân thì mới biết xã hội xưa đã đề cao nhân cách cao đẹp trong cuộc sống biểu hiện qua tư duy biểu đạt, giáo dục và hành vi của bậc chính nhân quân tử. Con người ta đi trên đường đời cũng giống như người lữ khách nhìn thấy trước mặt rất nhiều lối rẽ phải lựa chọn. Nếu đi đường thẳng quang minh thì sẽ đến đích suôn sẻ, nếu đi đường cong queo sẽ lạc bước sa chân, vì thế người quân tử bao giờ cũng xác định chọn đường thẳng, còn kẻ tiểu nhân toàn chọn những đường gấp khúc ngoắt ngoéo.

     Hai danh từ chủ yếu trong các sách vở, ngôn từ, sinh hoạt cổ này thoạt đầu chỉ đề cập đến địa vị trong xã hội, về sau mở rộng nghĩa ra thành người quân tử luôn đàng hoàng, phẩm cách cao thượng. hiên ngang chính đại, vì nghĩa quên thân, kẻ tiểu nhân chí khí bạc nhược, hèn hạ cúi luồn, hám lợi bỏ nghĩa.

     Ngay cả trong những người có văn hoá giáo dục, cũng vẫn chia làm hai loại là nho quân tử và nho tiểu nhân Nho quân tử là người học và làm theo đạo thánh hiền, lo tu thân sửa mình để hoàn thiện nhân cách chứ không nghĩ học lấy bằng cấp chỉ cốt lấy nghề kiếm ăn. Người quân tử làm việc dựa vào sức mình là chính, làm sai điều gì trước hết phải tự trách mình rồi sửa mình, khi thấy việc thiện thì phải cố làm cho được thấy điều ác thì phải sợ hãi tránh xa. Muốn học làm quân tử cần phải thành thực, không bao giờ tự lừa dối mình mà làm hại sự hiểu biết của chính bản thân và biết giữ chất phác trong nội dung và văn hoá ngoài hình thức.

     Đối với một người nhân nghĩa trung chính thì học vấn là điều tối quan trọng. Người quân tử bao giờ cũng muốn có đức' nhưng phải có học thì cái đức mới có giá trị bởi nhân, trí, tín, trực, dũng, cương đều là đức tốt cơ bản để tu thân, nhưng nếu chỉ muốn đức mà không muốn học để hiểu lý lẽ hay dở, đúng sai thì rất sai lầm. Muốn nhân lại bị tình cảm chi phối, che mờ đi thành ra ngu tối. Muốn trí lại bị ham muốn phân tâm thành mông lung. Muốn tín lại cố chấp hẹp hòi đâm ra ích kỷ. Muốn trực lại bị nóng nảy khống chế đâm ra ngang ngạnh. Muốn dũng lại không kiềm chế được thành ra bạo loạn. Muốn cương nhưng cố bảo thủ kiểu gàn dở đâm ra ngông cuồng... hậu quả của việc có đức nhưng không có học vấn là vậy.

     Sự học cũng như việc trồng lúa, có cây lúa mọc lên không tốt, có cây mọc tốt lại không có hạt. Người đi học thì có người học mãi vẫn không giỏi, có người giỏi thì đức lại không ra gì, vì thế mà con người ta cần giáo dục bồi đắp, tu dưỡng đạt được cả tài và đức. Người đi học thì phải say mê thì mới mong tiến bộ, nhất là đừng vội đặt ra mục đích cầu danh, kiếm lợi thì kiến thức mới sâu sắc, chắc chắn.

     Người quân tử phải chuyên tâm nghiên cứu mọi diều hay, điều tết trên lý thuyết và trong thực tế cuộc sống chứ không phải học vẹt, khoe mồm chỉ biết nghe qua tai rồi nói ra miệng lấy mẽ thì học kiểu gì cũng vô bổ. Khổng tử còn cho rằng: "Người quân tử có ba điều lo nghĩ không thể không xét đến. Trẻ mà không học thì khi lớn lên không có tài năng gì. Già mà không chỉ dạy người, khi chết rồi không ai tưởng nghĩ đến mình. Khi giàu có mà không đem của giúp người thì lúc cùng quẫn không ai giúp mình. Cho nên người quân tử lúc trẻ nghĩ đến tuổi già mà lo học, lúc già nghĩ đến cái chết mà lo dạy người, lúc thịnh nghĩ đến lúc suy mà lo giúp người".

     Sách Đại học xưa cũng dạy rằng: từ vua đến dân ai cũng phải lây tự sửa mình làm gốc vì kết quả học vấn là biểu hiện rõ nhất của phép tu thân. Muốn hoàn thiện mình, quan trọng nhất phải giữ được tâm và ý. Giữ được tâm cho chính tức là không bị chi phối và điều khiển của tức giận, sợ hãi, vui say. Còn khi tâm đã loạn thì mắt trông không thấy, tai nghe không hiểu, mồm ăn không biết mùi vị. Giữ được ý cho thành nghĩa là không bao giờ tự lừa dối mình, đối với mọi việc đều thành thực như ghét mùi thối, yêu sắc đẹp. Nho giáo lấy thành ý là chìa khóa của phép tu thân. Khi đã biết cách sửa được mình thì biểu hiện đầu tiên là không làm điều gì bất thường, trái đạo, không dùng lời nói khéo mà hại đạo đức, không nóng nảy làm bậy, không bo bo tính lấy lợi ích của riêng mình, tuy ai cũng muốn có phẩm giá nhưng không được dựa trên danh lợi phi nghĩa. Đã là người quân tử thì không bao giờ thấy điều lợi mà bỏ việc nghĩa, nếu làm việc phi nghĩa mà được phú quý thì đành chịu bần tiện còn hơn.

     Sách Luận ngữ nhận xét: "Quân tử lo nghĩ giữ đức hạnh, tiểu nhân chỉ nghĩ đến địa vị mình.
     Quân tử nghĩ sợ pháp luật, tiểu nhân chỉ nghĩ đến sự lợi lộc. Quân tử có tính cách trung hoà mà không a dua bè phái, tiểu nhân thích a dua bè phái mà không có tính dung hoà". Vì vậy mà trong mọi hoàn cảnh, người quân tử đều tím thấy niềm vui kể cả khi ăn gạo hẩm, uống nước lã, nằm đất.

     Ngoài ra, người quân tử có học vấn thật sự còn biết tuỳ vị trí và cảnh ngộ của bản thân để ứng xử cho đúng. Phú quý thì hành lễ theo cách phú quý, bần tiện thì hành xử theo cảnh bần tiện, gặp người hoang dã thì đối xử theo cách hoang dã, khi lâm nạn thì hành động theo cảnh ngộ hoạn nạn. Trong mọi lúc, mọi nơi, mọi điều kiện đều biết cách ứng xử cho thích hợp, đó là thành quả của học vấn, hiểu biết, giáo dục trong đối nhân xử thế của người quân tử, như Mạnh tử đã nói: “Người quân tử lấy đức nhân làm nhà ở, lấy đức nghĩa làm đường đi, lấy lễ làm cửa. Chỉ có mỗi người quân tử mới có thể đi đường ấy, ra vào cửa ấy mà thôi".

và còn nữa...

     Kẻ tiểu nhân mọi nơi, mọi lúc hay đặt điều, rêu rao dối trá, khiêu khích, ly gián, gió chiều nào che chiều ấy, té nước theo mưa, qua cầu rút ván, tung hoả mù trong quan hệ người với người.

1. Gây chuyện thị phi

Dựa vào gây chuyện thị phi, xúi dục, khiêu khích, ly gián, mọi người là phương pháp đơn giản nhất, thuận tiện nhất để thực hiện mục đích cá nhân. .

2. Đặt điều


Hãy suy ngẫm về người quân tử và kẻ tiểu nhân.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Võ Nguyên Giáp, một trong các vị tướng tài ba nhất thế kỷ 20

     Trong những ngày qua, thông tin về sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phủ kín các phương tiện truyền thông trên khắp thế giới. Hầu hết các hãng tin lớn đều có các bài viết dài về nhân vật mà họ ngợi ca là “thiên tài quân sự”, “vị Tướng huyền thoại” hay “vị Tướng kiệt xuất”…

     Đại tướng Võ Nguyên Giáp một biểu tượng nhiều thế hệ người dân Việt Nam về ý chí kiên cường và niềm tự hào dân tộc.

     Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/8/1911 ở làng làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình nhà Nho. Năm 1930, khi mới 19 tuổi, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế).

     Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Nguyên soái Gregory Zhukov của Liên Xô, Tướng Dwight D. Eisenhower của Mỹ được công nhận là những nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc nhất thế giới của thế kỷ 20.
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Việt Nam
Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong chiến tranh Thế giới thứ hai, Tướng Giáp cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo quân đội Việt Nam chống lại cả thực dân Pháp và đế quốc Nhật chiếm đóng. Sau đó, trong chiến tranh Việt Nam chống Mỹ, ông lãnh đạo nhân dân Việt Nam chống lại siêu cường số một thế giới trong một chiến tranh vũ trang điển hình. Sau gần 40 năm chiến đấu trường kỳ, nước Việt Nam thống nhất một nhà.








2. Nguyên soái Gregory Zhukov, Liên Xô (cũ)
Nguyên soái Gregory Zhukov là chỉ huy Hồng quân Liên Xô và giữ vai trò quan trọng trong việc đánh bại phe phát xít tấn công vào Liên bang Xô Viết. Ông dẫn đầu Hồng quân tiến vào Berlin và chấm dứt chiến tranh. Ông là nhà chiến lược tuyệt vời và được xếp đầu bảng về số lượng trận thắng và quy mô các trận đánh. Những chiến tích của ông trở thành những đóng góp lớn trong kho tàng kiến thức quân sự của nhân loại và làm thay đổi lý luận quân sự của thế giới.








3. Tướng Dwight D. Eisenhower, Mỹ

 Dwight D. Eisenhower là vị tướng 5 sao của Quân đội Mỹ trước khi trở thành tổng thống nước này. Trong chiến tranh Thế giới II, Eisenhower giữ vai trò chỉ huy tối cao của lực lượng Đồng minh. Ông cũng là chỉ huy đầu tiên của Hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO). Ông là nhà chiến lược tài ba với sự khéo léo trong chính trị, khiến ông trở thành ứng cử viên hoàn hảo nhất để lãnh đạo liên minh quân sự phương tây trong Thế chiến II.







4. Đô đốc Chester W. Nimitz, Mỹ

 Chester W. Nimitz là Đô đốc chỉ huy hạm đội của Hải quân Mỹ và trong Thế chiến II ông giữ chức Tổng tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, và là Tư lệnh Hải, Lục, Không quân của Mỹ và quân Đồng minh ở Thái Bình Dương. Ông nhận nhiệm vụ kể từ sau trận Trân Châu Cảng và với chiến thuật tài tình, ông chứng minh rằng chiến dịch của ông là chiến dịch thành công nhất trong Chiến tranh Thế giới II và giúp đánh bại phát xít Nhật. 









5. Nguyên soái Bernard Montgomery, Anh

 Nguyên soái Bernard Law Montgomery, Đệ nhất tử tước Montgomery xứ Alamein, bắt đầu sự nghiệp trong Chiến tranh Thế giới I nhưng lại nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới II khi chỉ huy quân đoàn số 8 của Anh trong chiến dịch Sa mạc phương Tây và đánh bại đội quân phát xít Đức của Erwin Rommel trong trận El Alamein. Sau chiến tranh ông trở thành Tham mưu trưởng của Quân đội Anh ở Rhine và sau đó là Tổng tham mưu trưởng Quân đội Hoàng gia.



6. Tướng George S. Patton, Mỹ

George S. Patton là nhà chỉ huy quân sự được tôn kính trong Lục quân Mỹ còn kẻ thù của ông thì kính sợ. Ông lãnh đạo quân đội Mỹ trong Chiến dịch Bắc Phi thời Thế chiến II và sau đó là chiến trường châu Âu. Ông là một chuyên gia về chỉ huy binh chủng xe tăng và nổi tiếng với những trận đánh thần tốc.











7. Nguyên soái Sam Manekshaw, Ấn Độ

Sam Manekshaw, hay còn gọi là "Sam Bahadur" có nghĩa là "Sam dũng cảm", là vị nguyên soái đầu tiên của Ấn Độ. Sự nghiệp của ông bắt đầu từ thời Quân đội Anh-Ấn trong Thế chiến II. Ông là Tổng tham mưu trưởng thứ 8 của quân đội Ấn Độ và chỉ huy thắng lợi cuộc chiến năm 1971 với Pakistan và kết quả là sự ra đời của nhà nước Bangladesh độc lập.

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Tập quán hôn nhân kỳ lạ (sưu tầm)

1. Vợ mang bầu, chồng được làm 'chuyện ấy' với em vợ
Nhiều dân tộc trên thế giới có phong tục về "sex" lạ lùng. Một trong số đó chính là việc anh rể có quyền ngủ với em vợ trong thời gian vợ mang bầu.
Phong tục này được tồn tại và duy trì tại khá nhiều bộ tộc thuộc khu vực phía nam của Nam Mỹ hay một số bộ tộc ít người tại châu Phi.

Tại các bộ tộc này người đàn ông được xem là trung tâm của gia đình và cuộc sống nên mọi hoạt động đều được ưu tiên. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình không nhiều ngoài việc nấu nướng và sinh con.

Chính vì thế, trong quá trình người vợ mang thai không thể "phục vụ" chuyện phòng the cho chồng thì người gánh vác nhiệm vụ này là em gái của vợ. Thông thường khi người vợ bắt đầu mang bầu thì người chồng được phép qua lại với em vợ để giải quyết vấn đề sinh lý không quan trọng cô gái ấy đã có chồng hay chưa.
Nếu người vợ không có em gái thì chị gái hoặc em họ trong gia tộc sẽ chịu trách nhiệm "chăm sóc" giúp chồng của họ trong quá trình họ thực hiện thiên chức làm mẹ. Điều này ngoài mục đích chăm sóc đời sống tình dục của người chồng thì còn có mục đích giúp người chồng giữ thân thể trong sạch không quan hệ với các cô gái khác huyết thống với vợ mình.
Một số bộ tộc của các quốc gia Nam Mỹ như Venezuela, Brazil, Bolivia… cho phép cặp vợ chồng có quyền quan hệ tình dục với anh chị em ruột thịt của bạn đời. Điều này đồng nghĩa với việc người chồng có thể công khai quan hệ tình dục với chị, em gái của vợ… Trong khi đó, người vợ lại có thể quan hệ với anh, em trai của người chồng.

Theo quan niệm của những bộ tộc này, điều đó sẽ thắt chặt thêm mối quan hệ tình cảm giữa anh chị em trong gia đình, và cũng là cách để củng cố mối quan hệ giữa hai vợ chồng. Chính vì thế, phong tục sex này khiến cho ra đời những đứa con chung cha khác mẹ cùng anh chị em.

2. Con trai được phép làm 'chuyện ấy' với mẹ kế
Trên thế giới tồn tại rất nhiều tập tục về hôn nhân hết sức kỳ quái và đặc biệt trong số đó có tập tục về đa thê hay đa phu.

Càng nhiều vợ càng giàu có

 Một trong những vùng đất điển hình cho việc đa thê có thể kể tới Nigieria khi người đàn ông được phép lấy tới 4.000 bà vợ. Điều này xuất phát từ quan niệm với người đàn ông, sự giàu có, sung túc, quyền lực không phải ở diện tích đất đai, nhà cửa, tiền bạc họ sở hữu, mà là ở số lượng vợ.
Tại bộ tộc Utah Roba, hôn nhân được thiết lập từ rất sớm khi những người con trai khoảng 15 tuổi họ đã có 2-3 vợ trong nhà. Khi đến 30 tuổi mà họ chưa đủ 10 vợ trong nhà thì đây được xem là 1 người đàn ông thất bại. Theo quan niệm, một người đàn ông ở độ tuổi 40-50 họ phải có khoảng ít nhất là 20-30 cô vợ. Và tất nhiên, sự giàu có và quyền lực của họ gắn liền với việc họ có bao nhiêu vợ trong tay.
Người đàn ông nào nhiều vợ nhất sẽ trở thành tấm gương sáng được nêu ra để dạy dỗ con cháu và mọi người. Thực tế việc họ được xem là giàu có cũng có lý do bởi chi phí để lấy vợ rất cao. Vì thế, để tậu thêm 1 vợ, họ ít nhất phải mất khoảng 1000 USD.

3. Bố lấy mẹ kế con trai được "hưởng" chung
Ngoài quan niệm càng ít vợ càng nhục nhã thì ở một số bộ tộc tại Tây Tạng còn tồn tại tập tục bố và con trai chung mẹ kế. Theo quan niệm của một số bộ lạc tại Tây Tạng, sau khi vợ chết người đàn ông được phép lấy vợ mới. Người này sẽ thay thế người vợ cũ thực hiện việc chăm sóc gia đình và sinh đẻ con cái thay người vợ đã khuất.
Tuy nhiên, người mẹ kế này còn chịu trách nhiệm "cưới" luôn con trai của người đàn ông này.
Vì thế, người mẹ kế vừa là vợ của bố vừa là vợ của con trai. Cả 2 bố con đều được phép ngủ cùng người phụ nữ được lấy về làm mẹ kế.
Tuy nhiên, người bố trong gia đình vẫn là người "chồng chính" còn người con trai chỉ là "chồng phụ" và không có quá nhiều quyền hành quyết định đối với người mẹ kế. Nhiệm vụ của người mẹ kế là phải "phục vụ" và "chăm sóc" cho cả 2 người đàn ông trong gia đình.
Chính vì thế, khi người mẹ kế sinh nở thường không xác định được đâu là con của người bố và đâu là con của người con trai mà tất cả chỉ phụ thuộc vào trực giác của người mẹ kế để xác định.
Việc xưng hô trong gia đình cũng khá lộn xộn bởi nhiều khi việc xác định con của ai chỉ mang tính chất tương đối.

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

10 Bài tập cột sống thắt lưng

Mời các bạn tham khảo.

Đau thắt lưng là triệu chứng rất thường gặp khiến nhiều bệnh nhân phải tìm đến khám bác sĩ cơ xương khớp.
Đau thắt lưng thiết nghĩ chỉ hay gặp ở những người lớn tuổi do loãng xương hay thoái hóa theo tuổi nhưng gần đây triệu chứng này đã xuất hiện ở giới trung niên, ngay cả những người trẻ tuổi.
Đau thắt lưng có rất nhiều nguyên nhân cần phải chẩn đoán loại trừ như sỏi thận, đau do co thắt cơ, do mỏi, đau do tổn thương cấu trúc xương sống vùng thắt lưng (thoái hóa, xẹp, trượt) hay do thoát vị đĩa đệm chèn ép rễ thần kinh… Bác sĩ sẽ hỏi tính chất đau và thăm khám kèm với các chẩn đoán hình ảnh (x quang, cộng hưởng từ) sẽ xác định được nguyên nhân gây triệu chứng.
Đa số nguyên nhân thường thấy ở những người trẻ là do mỏi cơ khi làm việc ngồi nhiều hoặc sinh hoạt sai tư thế. Lúc này dùng thuốc sẽ giảm triệu chứng đau nhưng nếu kết hợp các bài tập về cơ cột sống thắt lưng sẽ cải thiện hiệu quả điều trị nhanh hơn, ít dùng thuốc hơn và ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh.


Những bài tập cho đau thắt lưng làm cho các cơ lưng, bụng, chân trở nên mạnh hơn. Những bài tập này giúp nâng đỡ cột sống của bạn, làm dịu đi sự đau lưng. Luôn luôn hỏi ý kiến bác sĩ trước khi thực hiện những bài tập đau lưng này. Tùy thuộc vào nguyên nhân và cường độ đau lưng của bạn đến đâu mà một số bài tập có thể được khuyến cáo hay có thể có hại.

 Bài tập 1: gập bụng một phần
Một số bài tập có thể làm nặng thêm chứng đau lưng và bạn nên tránh nếu có tình trạng đau thắt lưng cấp. Một phần gập bụng co chân có thể giúp tăng sức mạnh của cơ lưng và cơ bụng. Nằm gập gối và lòng bàn chân áp lên sàn. Để tay lên ngang ngực hoặc đặt tay ra sau cổ. Co cơ bụng và nâng vai lên khỏi mặt sàn. Thở ra khi bạn nâng vai. Đừng dùng khuỷu hoặc tay để đưa cổ lên khỏi sàn. Giữ trong 2 giây sau đó từ từ hạ xuống. Lặp lại động tác này 8-12 lần. Nên luôn tránh việc đè nén quá mức vùng lưng dưới. Bàn chân, ngón chân và vùng lưng nên luôn được tiếp xúc với sàn tập.
 Tránh gập bụng toàn phần
Mặc dù bạn nghĩ rằng gập bụng có thể làm chắc các cơ bụng, nhưng hầu hết mọi người lại có khuynh hướng sử dụng các cơ hông khi thực hiện động tác này. Gập bụng cũng sẽ tạo rất nhiều sức ép lên các đĩa đệm của cột sống.
 Bài tập 2  căng cơ chân ngỗng
Nằm ngửa, co chân trái. Quấn khăn vòng quanh bàn chân phải. Duỗi thẳng gối phải và từ từ kéo khăn lên. Bạn sẽ cảm thấy một lực căng ở mặt dưới cẳng chân. Giữ trong vòng 15-30 giây. Lặp lại 2-4 lần cho mỗi bên chân lên khỏi mặt sàn. Thở ra khi bạn nâng vai. Đừng dùng khuỷu hoặc tay để đưa cổ lên khỏi sàn. Giữ trong 2 giây sau đó từ từ hạ xuống. Lặp lại động tác này 8-12 lần. Nên luôn tránh việc đè nén quá mức vùng lưng dưới. Bàn chân, ngón chân và vùng lưng nên luôn được tiếp xúc với sàn tập.
 Tránh: Nâng chân
Nâng cẳng chân là động tác được đề nghị để rèn luyện vùng trọng tâm cơ thể hay các cơ vùng bụng. Tập luyện để phục hồi sức lực vùng thắt lưng sẽ vô cùng có ích trong việc giảm đau thắt lưng. Tuy nhiên nâng cả hai chân cùng lúc khi nằm ngửa cũng có thể làm cơn đau tồi tệ hơn. Thay vào đó, hãy thử nằm ngửa trên sàn một chân duỗi thẳng và gấp nhẹ gối chân kia. Chậm rãi nâng chân đang duỗi thẳng khỏi mặt đất khoảng 20 cm và giữ như vậy trong vài giây. Hạ từ từ chân đó xuống chạm đất. Lập lại 10 lần rồi đổi chân.
 Bài tập 3: Tựa vào tường
Đứng cách tường khoảng nửa bước chân rồi tựa lưng sát tường. Hạ thấp người xuống cho gối gấp vừa phải đồng thời áp sát phần thắt lưng vào tường. Giữ nguyên, đếm đến 10 rồi trở về tư thế ban đầu, lưng vẫn đặt sát tường. Lập lại 8 đến 12 lần.
n một chân duỗi thẳng và gấp nhẹ gối chân kia. Chậm rãi nâng chân đang duỗi thẳng khỏi mặt đất khoảng 20 cm và giữ như vậy trong vài giây. Hạ từ từ chân đó xuống chạm đất. Lập lại 10 lần rồi đổi chân.
 Tránh: Chạm ngón chân
Tập thể dục tốt cho đau thắt lưng nhưng không phải tất cả các bài tập đều có lợi. Bất cứ cảm giác đau nhẹ nào khi bắt đầu những bài tập này sẽ biến mất khi các cơ bắt đầu nóng lên. Nhưng nếu đau nhiều hơn và kéo dài hơn 15 phút trong khi tập, bệnh nhân nên ngưng tập và nên liên hệ với bác sĩ. Một số bài tập có thể làm đau nặng thêm. Ví dụ, đứng cúi chạm đầu ngón chân sẽ đặt một sức căng lớn lên các đĩa đệm và dây chằng của cột sống. Động tác này cũng có thể làm các cơ thắt lưng và gân cơ chân ngỗng căng quá mức.
 Bài tập 4: Hít đất và duỗi lưng
Nằm sấp, chống tay ngang vai. Đầy bằng tay để nhấc vai khỏi sàn. Nếu thấy thuận tiện, bạn có thể đặt cùi chỏ trực tiếp lên sàn ngang vai, giữ tư thế này trong vòng vài giây
 Bài tập 5: bài tập thăng bằng
Bắt đầu bằng việc chống hai tay và gối xuống sàn, căng cơ bụng. Nâng và duỗi một chân ra sau đồng thời giữ hông vững, giữ nguyên tư thế trong vòng 5 giây, sau đó đổi chân, lặp lại 8-12 lần cho mỗi chân. Cố gắng giữ chân lâu hơn ở những nhịp sau đồng thời cố gắng nâng và duỗi tay bên đối diện cho mỗi nhịp. Đây là một bài tập tốt để học cách thăng bằng cho vùng thắt lưng qua vận động tay, chân cùng lúc. Lưu ý khi thực hiện động tác này phải giữ thẳng lưng vì thế chỉ nâng tay và chân đến mức bạn vẫn còn thẳng lưng được.
 Bài tập 6:  gối đến ngực:
Nằm ngửa, gối gập, lòng bàn chân tiếp xúc mặt sàn. Co một gối lên trước ngực, chân còn lại vẫn giữ như cũ. Giữ lưng ép sát mặt sàn, để tư thế này trong 15-30 giây. Sau đó hạ chân xuống và đổi bên. Lặp lại động tác mỗi bên 2-4 lần. Phải giữ thẳng lưng vì thế chỉ nâng tay và chân đến mức bạn vẫn còn thẳng lưng được.
 Bài tập 7: Nghiêng chậu hông
Nằm ngửa, gối gập, lòng bàn chân tiếp xúc mặt sàn. Căng bụng bằng cách hóp bụng và tưởng tượng rốn di chuyển về phía cột sống. Bạn sẽ cảm thấy lưng của mình ép sát trên sàn và phần chậu hông bập bênh. Giữ trong 10 giây trong khi hít vào thở ra đều đặn. Lặp lại động tác này 8-12 lần.
 Bài tập 8: Bắt cầu
Nằm ngửa, gập gối, chỉ gót chạm sàn. ấn gót  xuống sàn, co cơ mông và nhấc hông khỏi sàn đến khi vai, hông, gối nằm trên một đường thẳng. Giữ 6  giây, từ từ hạ hông xuống sàn nghỉ 10s, lặp lại 8-12 lần. Tránh cong thắt lưng khi nâng hông và tránh co cứng cơ bụng trước và trong khi nâng hông vì sẽ làm vùng thắt lưng cong quá mức.
 Bài tập 9: Nâng tạ
Nếu được thực hiện hợp lý, nâng tạ không gây đau lưng. Thực tế nâng tạ có ích trong trường hợp đau thắt lưng mạn tính. Ngược lại, nếu bạn đau thắt lưng đột ngột, tập tạ làm tăng nguy cơ tổn thương cơ và dây chằng vùng lưng. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ khi nào nên tập tạ, và những động tác nào cần tránh.
Bài tập 10: Thể dục toàn thân
      Thể dục nhịp điệu giúp cho phổi, tim và các mạch máu của bạn khỏe hơn và còn giúp bạn giảm cân. Đi bộ, bơi lội và đạp xe đạp cũng giúp giảm cơn đau lưng. Bắt đầu với các bài tập nhỏ và nâng dần theo thời gian. Nếu lưng bạn bị đau, hãy thử bơi lội,vì nước sẽ hỗ trợ cho cơ thể bạn.Tránh các va chạm mà có thể gây nguy hiểm cho cơ thể bạn.

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Chân Thiện Mỹ - theo nhà Phật (tham khảo)

Khái niệm về Tam Giáo Đồng Nguyên
     Nói đến Tam Giáo Đồng Nguyên làm SK nhớ đến người thầy khả kính là cố giáo sư Nguyễn Đăng Thục người đã làm sống lại tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên từ thời Lý Trần (1010- 1400 ) qua môn Quốc Học cho sinh viên ban Văn Chương tại viện đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn vào trước năm 1975.
     Tam Giáo là chữ từ Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão giáo: Phật Giáo từ Ấn Độ truyền sang (phía Tây Nam đưa lên), Còn Khổng giáo và Lão Giáo từ Trung Hoa truyền sang (phía bắc đi xuống). Dân tộc Việt Nam đã hài hòa 3 đạo nầy lại được thể hiện qua thái độ sống chứ không phải hòa chung Phật, Khổng và Lão với nhau.
     Khổng học (còn gọi Nho Học) chuyên về cái lễ giáo của xã hội, đã uốn nắn con người ngay từ khi lọt lòng, làm sao thich hợp với hoàn cảnh, tức là đạo Nho chủ trương lập thế thể hiện trong xã hội qua đời sống cá nhân và cộng đồng.Thể hiện cái đạo để đưa đến hạnh phúc. Thí dụ như Quân, Sư, Phụ :
     Quốc gia đứng đầu là vua,
     Xã hội đứng đầu là Thầy học
     Gia đình đứng đầu là Cha - Mẹ
     Làm con phải hiếu làm tôi phải trung...vv và vv
     Đạo Lão (còn gọi là Lão Trang) thì quay về thiên nhiên, đứng ngoài nhân quần xã hội "tự nhiên chi nhiên", tức là đạo Lão chủ trương xuất thế, sống tự nhiên trong khung cảnh thiên nhiên của trời đất. Lối sống của những nhà ẩn dật tìm vào hang động thiên nhiên thông cảm với đạo Trời.
     Một đằng thì Chính danh, hữu vi, đề cao giá trị " Lễ, trí, nhân, nghĩa. Một đằng thì phi thường danh, vô vi, tuyệt lễ khí trí, tuyệt nhân khí nghĩa.
     Nếu nhìn ở phương diện triết học về khái niệm thì hai hệ thống trên đây là cả một sự mâu thuẩn, đối lập nhau, khó có thể sống chung. Khổng giáo chấp vào có thế giới, Lão giáo chấp vào không có thế giới. Duy chỉ có Phật Giáo qua các Thiền sư đời nhà Lý tinh thông Nho học và Lão học đã sớm ý thức cái sở trường và sở đoản của hai dòng tư tưởng trên đã áp dụng tinh thần vô chấp tức là không chấp nhận 2 quan điểm Có hay Không để thấu triệt vấn đề là làm sao thoát khỏi cái vòng đau khổ của cuộc sống, sinh tử của luân hồi, dứt được sự tính toán "Có " "Không" thì chỉ có Phật giáo giải quyết được mà thôi.
     Vì Đạo Khổng, Đạo Lão và Đạo Phật đều có khác nhau về quan điểm nhưng cùng ý hướng vào mục đích chung, bởi thế mà chúng có thể bổ túc cho nhau thành một thế giới quan đầy đủ về 3 phương diện đòi hỏi của con người: ý chí, tình cảm và lý trí tức là Chân Thiện Mỹ, chứ không phải là hệ thống danh lý (concept) về sự vật rồi gạt bỏ những phương tiện khác không thich hợp với hệ thống của mình hay đạo của mình.
     Thí dụ như bài ca dao của tầng lớp bình dân :
Ngó lên trên trời thấy cặp cu đương đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đương đua
Đi về lập miếu thờ vua
Lập trang thờ Mẹ, lập chuà thờ cha.
     Một bài ca dao thật đơn sơ và mộc mạc nhưng đã thể hiện cả tình cảm, thiên nhiên gia đình và xã hội qua 3 đạo khác nhau. Qua tới những sĩ phu, trí thức lãnh đạo thì tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên càng được phát triển mạnh mẽ :
Thí dụ như bài thơ tứ tuyệt :
Vạn Hạnh dung tam tế,
Chân Phù cổ sấm ki
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tich trấn Vương kỳ
     Tạm dich :
Vạn Hạnh có cái đức dung thông cả ba cõi Trời, Đất và Người
Phù chú chân thật, lời sấm về thiên cơ
Quê hương có tên là Pháp xưa
Gậy nhà Phật bảo vệ kinh kỳ nhà vua.
     Bài thơ được làm dưới Triều nhà Lý, thời mà các Thiền sư điều tinh thông phù sấm tiên tri, thần thông qua Dich pháp với Lão học và các ngài đã trực tiếp tham gia vào sinh hoạt chính trị quốc gia như phò vua, gìữ nước.
     Một bài thơ khác được sáng tác gần thời chúng ta hơn, đó là bài " Tâm xuân " của nhà thơ Phạm Thiên Thư và được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc vào khoảng thập niên 70. Tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên được thể hiện rất rõ qua bài thơ nầy :
Tâm Xuân
Xuân về trong gió, hoa lay lững lờ
Xuân về đám mây, bướm vàng nhụy bay
Xuân về lòng đất, mầm tươi nhựa trào
Xuân về non cao, chim mừng suối reo...
Xuân về biển mát, suôi nhanh cánh buồm
Xuân về suối xanh, cá hồng lượn quanh
Xuân về trầm ngát, Di Lặc hiền lành
Em về thiên nhiên, ngâm mình suối tiên.
Em về thôn trang, tiếng hò giao duyên
Em về khơi hương, thơm ngôi từ đường
Em về quê nhà, lễ đình làng ta
Nhớ cội, nhớ nguồn, đất tổ, quê cha
Em về siêu nhiên, hành hương chùa chiền
Dâng hoa cúng Phật, ưu phiền sẽ tan
Em mở lòng ra, vui cùng cỏ hoa
Xuân về vũ trụ ! Ta về lòng Ta !
Có thiên nhiên mới, an vui hiền hoà
Có lò hương đợi, nối liền ngày qua
Mái đình diệu vợi, nặng tình quốc gia
Chuông chùa siêu thoát, Ta vượt lòng Ta.
Bao dung độ lượng như bốn mùa hoa.
*********************************************************** 

Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Quân tử - Tiểu nhân (tham khảo)

Khái niệm quân tử, tiểu nhân do các nhà Nho đề xướng. Khổng tử cho rằng để trị nước cần đào tạo ra một tầng lớp người gọi là quân tử, quân tử là những người thuộc tầng lớp trên, có địa vị trong xã hội, giúp vua trị vì đất nước; tiểu nhân là những người hèn kém trong xã hội. Tư tưởng Nho gia ủng hộ chế độ phong kiến.
Sau này, khái niệm quân tử được mở rộng để chỉ những người có hành vi hào hiệp, trượng nghĩa; tiểu nhânđể chỉ những kẻ ti tiện, vô liêm sỉ.
Nho gia theo đạo quân xâm lược trung quốc xâm nhập vô nước ta. Sự phát triển của Nho gia được đánh dấu từ khi nhà Lý cho xây dựng 2 trường học đầu tiên của nước ta là Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Quá trình phát triển Nho gia ở nước ta đã để lại dấu ấn rất lớn trong tư tưởng chúng ta. Tư tưởng quân tử, tiểu nhân chi phối rất nhiều đến các hoạt động của chúng ta thường ngày. Ai cũng muốn hoàn thiện bản thân mình, hướng đến chân thiện mỹ. Ai cũng yêu người quân tử, ghét kẻ tiểu nhân. Thực tế rút ra rằng trong một xã hội tốt thì đất sống cho kẻ tiểu nhân không nhiều, ngược lại trong một xã hội đạo đức làm người thấp kém thì phần lớn kẻ tiểu nhân đều thành đạt trên con đường công danh, sự nghiệp; vì người tiển nhân sống bằng nịnh hót, luồng lách, thiếu tự trong, luôn dối trá . . .làm mọi việc vì lợi ích cá nhân.



LẼ ĐỜI
Xưa nay trong đạo làm Người 
Tiểu nhân - Quân tử ở đời thiếu chi 
Ngẫm xem lịch sử mà suy
Ông Cha nếm trải thiếu gì gương soi:
"Nỏ Thần" dám lấy làm chơi
Hại thay Vương báu vuột rơi tay thù;
"Lệ Chi Viên" đẫm lệ sầu
Quần thần đố kị quặn đau nhân tình.
“Hoành Sơn nhất đái" dung thân
Nuôi bao kế hiểm chia ngăn lòng người
"Gió đưa cây cải về trời"
Sát con, hại Thiếp- Ngàn đời tội danh
Nữa phường "Cọng rắn" hôi tanh
Trăm năm Pháp thuộc, ô danh triều đình

Ngẫm suy thế thái nhân tình
Tiểu nhân, Quân tử như hình sinh đôi
Làm sao tránh được số trời
Thì đành gạn lọc rạch ròi đục trong
Tiểu nhân như chó quẫn cùng
Coi xem thiên hạ bằng vung, cắn càn.
Quân tử cốt cách hiên ngang
Lẽ đời thấy sự bất bằng, ra tay
Chuyện xưa nhắc tới hôm nay
Những mong chào đón bàn tay anh hùng
Ra tay diệt lũ điên khùng
Tham quan vô lại núp trong ô dù
Cậy thân quyền trọng chức to
Kết bè tham nhũng, bày trò lừa dân.

Lẽ đời công tội rõ ràng
Quyền cao chức trọng phải càng thanh liêm
Gương xưa hãy lấy mà xem
Đời cha bất chính có bền đời con?
Dẫu giàu vàng đắp thành non
Thân bại danh liệt cháu con thất truyền.

Ở đời cốt chữ Công Danh
Công thành Danh toại, lưu danh đời đời
Đừng quên miệng thế chê cười
Lưu danh thiên cổ : sự đời Dở - Hay 
Đừng mong trốn được lưới dày
Hãy chăm lo giữ lẽ này : Thanh cao.

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

Ngày Tết Trung thu


Tết Trung thu là tết của những thiên thần bé nhỏ được sự chuẩn bị, chăm sóc của người lớn. Trẻ em phá cỗ trông trăng và mơ màng về hình bóng chú Cuội dưới gốc cây đa nơi cung Hằng dịu dàng, yêu thương tràn ngập.  Đồ chơi Tết Trung thu thuở xa xưa chủ yếu là đèn ông sao, mặt nạ thú, trống ếch và trống bỏi. Đèn kéo quân, đèn lồng… Đêm Trung Thu, nhịp trống quân thùng thình, thùng thình… nhịp trống bỏi binh bông, binh bông… cùng với ánh đèn ông sao mờ ảo, hương cốm, hương bưởi, hương ổi, hương hồng… ngọt ngào, thấm đẫm vào ánh trăng rằm vằng vặc, rong ruổi trong làn gió nhẹ đêm thu, ríu rít những bàn chân sáo đám trẻ thơ… là thế giới kỳ ảo muôn màu của các cháu bé, của ước vọng hòa bình. Thế giới ấy không chỉ lay động, xao xuyến tâm hồn con trẻ mà còn quyến rũ, rủ rê người lớn cùng ùa vào cuộc chơi. Hình ảnh những người cha cặm cụi vót tre làm đèn ông sao, những người mẹ lễ mễ bê mẹt trái cây, cốm, xôi sắp cỗ, những đứa trẻ chơi trò bịt mắt bắt dê, thả ba ba chờ trăng rằm mọc… là những nét đẹp cổ kinh điển phổ biến của văn hóa Việt trong mỗi dịp Tết Trung thu thuở những thập niên 1970 trở về trước. Ngày ấy, ngẫu hứng về thiên nhiên vẫn rong ruổi bất tận cùng mây gió.

Hãy nhớ lại thời niên thiếu với tết trung thu của tuổi thơ đời mình. Thời nay các em thiếu nhi có nhiều cơ hội tốt hơn. Tuy nhiên, các em thành thị, nông thôn; các em nhà giàu, nhà nghèo . . .còn nhiều bất cập.Có những thiếu nhi thừa bánh thiếu trăng và ngược lại có em thừa trăng thiếu bánh; thậm chí có những em thiếu nhi thiếu cả bánh lẫn trăng.
Bao giờ tất cả thiếu nhi Việt Nam điều được có trăng và bánh trung thu.

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Các dược thảo trị bệnh gan, mật

     Trong các loại dược thảo có tác dụng lợi mật, trị viêm gan, ác-ti-sô chiếm một vị trí quan trọng. Nó làm tăng mạnh lượng mật bài tiết, tăng lượng nước tiểu và nồng độ urê trong nước tiểu, giảm lượng urê và cholesterol trong máu.
     Ác-ti-sô được dùng làm thuốc thông mật, điều trị hỗ trợ trong các bệnh viêm gan, suy gan. Dạng dùng là lá tươi hoặc khô (liều tương đương 2-10 g lá khô một ngày), sắc uống hoặc nấu cao rồi bào chế thành viên, hay chiết xuất thành dạng cao lỏng tinh chế, dùng dưới hình thức giọt.
     Viên cynaraphytol chứa 200 mg cao tinh chế từ lá tươi ác-ti-sô. Ngày dùng 2-4 viên. Trà túi lọc ác-ti-sô được bào chế từ các bộ phận của cây với tỷ lệ: thân 40%, rễ 40%, hoa 20%. Mỗi túi chứa 2 g, liều dùng không hạn chế.

     Một số loại thảo dược trị bệnh gan mật khác:
     Dành dành: Cao chiết từ quả dành dành làm tăng sự tiết mật. Trong thử nghiệm trên thỏ đã thắt ống dẫn mật chủ, cao nước và hoạt chất trừ dành dành ức chế sự gia tăng bilirubin trong máu. Dành dành còn có tác dụng kháng khuẩn và chống viêm. Trong y học cổ truyền, nó là một vị thuốc được dùng từ lâu đời chữa bệnh vàng da. Ngày dùng 6-12 g quả dưới dạng nước sắc hoặc hoàn tán.
     Đại hoàng: Có tác dụng làm tăng tiết mật, kháng khuẩn, lợi niệu. Với liều vừa phải (0,5-2 g), nó chữa các chứng vàng da, kém ăn, ăn không tiêu. Ở liều cao, nó là thuốc tẩy nhẹ dùng cho người bị vàng da nặng, đầy bụng, đại tiện bí. Ngày dùng 3-10 g sắc uống. Phụ nữ có thai, đang cho con bú hoặc người bị sỏi niệu calci oxalat không dùng đại hoàng.
     Hoàng cầm: Có tác dụng ức chế kháng nguyên bề mặt của virus gây bệnh viêm gan B. Trong y học cổ truyền, hoàng cầm được dùng điều trị bệnh vàng da. Ngày uống 6-15 g dạng thuốc sắc hoặc bột.

     Nghệ: Tinh dầu nghệ có tác dụng làm tăng tiết mật nhờ thành phần p-tolylmethyl carbinol. Nghệ còn có tác dụng chống viêm và kháng khuẩn. Một bài thuốc có nghệ đã được áp dụng điều trị viêm gan do virus và hầu hết bệnh nhân thử nghiệm đều khỏi. Trong y học cổ truyền, nghệ được dùng chữa bệnh vàng da. Ngày uống 2-6 g dưới dạng bột hoặc thuốc sắc, chia làm 2-3 lần.

Nhân trần: Cao chiết từ nhân trần có tác dụng làm tăng tiết mật, tăng chức năng thải trừ của gan, kháng khuẩn và chống viêm. Nhân trần đã được áp dụng điều trị cho các bệnh nhân mắc viêm gan do virus cấp tính, bệnh vàng da.Trong y học cổ truyền, nhân trần được dùng chữa vàng da, sốt nóng, tiểu tiện không thông. Ngày dùng 8-20 g, dưới dạng thuốc sắc, siro hoặc thuốc viên.
     Các bài thuốc cụ thể
     - Vàng da, vàng mắt, sốt: Dành dành 5 g, hoàng bá 5 g, cam thảo 2g. Sắc uống ngày một thang. Hoặc: Nhân trần 20 g, dành dành 12 g, đại hoàng 4 g. Sắc uống ngày một thang.

     - Viêm gan, vàng da, vàng mắt: Nhân trần 30 g, dành dành 12 g, vỏ đại 10 g (hoặc chút chít 8 g). Sắc uống ngày một thang.
     - Viêm gan, tắc mật: Đại hoàng tẩm rượu sao, tán bột. Ngày uống 2-4 lần, mỗi lần 2 g.
     - Viêm gan do virus cấp tính: Hoàng cầm, hoàng bá, hoàng liên, dành dành mỗi vị 12 g, nhân sâm, thạch xương bồ, đại hoàng sống mỗi vị 8 g. Sắc uống ngày một thang.

     - Viêm gan do virus mạn tính: Nhân trần 20 g, kim ngân 16 g, hoàng cầm, hoạt thạch đại phúc bì, mộc thông mỗi vị 12 g, phục linh, trư linh, bạch đậu khấu mỗi vị 8 g, cam thảo 4 g. Sắc uống ngày một thang.
     - Viêm gan, suy gan, vàng da: Bồ bồ 10 g, nghệ, dành dành, râu ngô mỗi vị 5 g. Mỗi ngày uống một thang dưới dạng thuốc sắc, siro hoặc cốm. Hoặc: Rau má 4 g, núc nác 3 g, nhân trần 3 g, nghệ, sài hồ nam, dành dành, nhọ nồi, hậu phác nam (vối rừng) mỗi vị 2 g.
     Nghệ, dành dành, hậu phác nam được tán bột mịn, các vị khác nấu cao đặc với nước. Làm viên hoàn, ngày uống 10 g, chia làm 2 lần.